Bạn tôi, Hùng, sang Mỹ học về quản trị công nghệ năm 1994. Sau khi tốt
nghiệp thạc sĩ về nước năm 1997, anh trở về trường đại học nơi mình ra
đi tìm cách để ứng dụng những kiến thức và kỹ năng đã học. Tìm mãi cũng
không chọn nơi làm việc cho phù hợp, anh đành phải chấp nhận làm việc
tại Trung tâm tư liệu Đại học Đà Nẵng. Sau gần mười năm lăn lộn với
lĩnh vực khoa học hoàn toàn mới lạ, anh
đã góp phần biến Trung tâm này thành một nơi cho cả ngành thư viện Việt
Nam đến tham quan học tập về quản lý thông tin thư viện. Tuy nhiên, do
cơ chế đề bạt cán bộ của nhà nước, bản thân anh cũng phải hợp thức hóa
vị trí của mình bằng cách học thêm một bằng thạc sỹ thư viện để nhận
chức giám đốc trung tâm. Sự nghiệp đang vững vàng thì anh bị bệnh tim và
qua đời một cách đột ngột ở tuổi 50.
Minh sang Mỹ học thạc sỹ
về kinh tế phát triển ở Khoa Kinh tế phát triển, Đại học Vanderbilt.
Anh học rất giỏi các ngành khoa học liên quan đến tính toán như xác suất
thống kê, toán cao cấp, toán kinh tế… Vì thế anh trở thành người phụ
đạo cho rất nhiều sinh viên đến từ Châu Phi, Indonesia, Philippines,
Malaysia… và được tôn kính như giáo sư.
Giáo sư dạy môn kinh
tế lượng thấy anh quá xuất sắc đã cho phép anh làm trợ giảng và trả thù
lao tương xứng cho anh. Khi anh tốt nghiệp, vị giáo sư này còn đề nghị
cấp học bổng để anh ở lại trường học tiếp lên bậc tiến sĩ. Nghĩ rằng
đất nước đang hồi sinh, về đúng lúc sẽ đóng góp nhiều hơn, anh quay lại
Việt Nam. Hơn 15 năm qua, tôi vẫn chưa thấy tên anh xuất hiện trên các
báo đọc mỗi buổi sáng hàng ngày. Thế nhưng, tôi vẫn mong sao anh có thể
đóng góp sức mình cho đất nước dù ở bất cứ vị trí nào đi nữa. Vì thế,
tôi vẫn chờ mong.
Hùng và Minh chỉ là hai ví dụ điển hình trong
số ít những người tôi quen biết. Rất nhiều những gương sáng học tập
của người Việt của chúng ta khắp năm châu được nêu trên các báo hàng
ngày. Nhân tài nước Việt không thiếu, nhưng chúng ta thiếu vắng các
điều kiện kinh tế xã hội để họ thi thố tài năng.
Vì thế, đừng
hỏi vì sao nền kinh tế của chúng ta vẫn còn trì trệ, nền khoa học kỹ
thuật của chúng ta vẫn chưa có lối ra. Con cháu chúng ta vẫn tiếp tục đổ
mồ hôi gia công hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp của chúng ta vẫn đào bới
tài nguyên đem bán thô ra thị trường các nước.
Hàng ngàn sinh
viên trong nước, tốt nghiệp ra trường vẫn rất khó kiếm được việc làm.
Hàng trăm sinh viên tốt nghiệp ở nước ngoài về muốn có thu nhập tương
xứng với đầu tư của gia đình đành phải tìm cách làm cho thuê cho các
công ty, tổ chức nước ngoài. Uổng quá tài Việt!
Friday, August 23, 2013
Luân chuyển cán bộ dưới góc nhìn quản trị
Từ
thời xa xưa, các triều đại vua chúa Trung Hoa hay Việt Nam đều đã thực
hiện việc luân chuyển quan lại từ nơi nay sang nơi khác. Gần đây, trong
hệ thống công quyền ở nước ta cũng như các nước cũng đã thực thi sự việc
này. Rõ ràng nhất là ở các cơ quan ngoại giao. Chẳng hạn, cứ ba năm
chúng ta lại chứng kiến việc thay đổi một viên chức ngoại giao cấp tổng
lãnh sự hay đại sứ một nước. Sự việc lập đi lập lại nhiều lần nhưng ít
người đặt câu hỏi tại sao. Gần đây, khi đi vào thực tế quản trị doanh
nghiệp tôi mới có dịp trải nghiệm những lý lẽ đằng sau việc luân chuyển
nhân sự đó.
Thoạt đầu, tôi có ý nghĩ việc luân chuyển nhân lực nhằm tránh tiêu cực trong quản lý. Chẳng hạn, một kế toán trưởng ở chi nhánh một cơ quan có thể tạo điều kiện cho nhân viên thu ngân giữ lại một lượng tiền mặt, sau đó đem cho vay hay mua bán lòng vòng, trước khi chuyển về công ty mẹ. Sự việc này chỉ xãy ra khi cả hai có quan hệ đã phát triển đến mức có thể thông đồng để mưu cầu lợi ích riêng của nhóm. Một quản lý công ty cũng có thể tuyển vào đơn vị mình bà con họ hàng để tạo chân rết trong các phi vụ làm ăn bất chính…
Tuy vậy, qua thời gian, tôi dần dần nhận thấy việc luân chuyển nhân lực còn ẩn chứa một giá trị cao đẹp trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho tổ chức.
Trước hết, nói về nhân viên cấp dưới, việc luân chuyển nhân lực là cách để khơi nguồn sáng tạo, giúp họ tránh được tính lười biếng, ù lỳ do công việc đơn điệu mỗi ngày cùng một người sếp qua nhiều năm. Vì thế, nếu luân chuyển cán bộ quản lý theo chu kỳ, tính thích ứng của nhân viên cấp dưới sẽ trở nên linh hoạt và năng động hơn. Mỗi sếp mỗi vẻ, mỗi cá tính khác nhaunvà như thế cách điều hành tổ chức, ứng xử sẽ khác nhau. Nhân viên cấp dưới phải có năng lực đáp ứng sự thay đổi nếu không khó có thể tồn tại trong môi trường làm việc mới. Phương pháp này được các cơ quan công quyền, nhất là cơ quan ngoại giao áp dụng phổ biến nhằm tránh cho nhân viên cấp dưới làm viêc máy móc, quan liêu. Trên thực tế ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, nơi có nhiều các cơ quan nước ngoài, rất nhiều người phải thay đổi công việc do không thích ứng khi có sự thay đổi quản lý mới.
Luân chuyển là cách có thể đào tạo ra một lớp quản lý toàn năng. Một kỹ sư trẻ khi tốt nghiệp ra trường, anh ta thường phải làm công tác chuyên môn. Tuy nhiên, để trở thành một nhà quản lý, anh ta phải trải qua nhiều công việc khác nhau khả dĩ có thể đủ tri thức và kinh nghiệm xử lý các tình huống đa dạng trong quản trị điều hành tổ chức. Cách làm này các doanh nghiệp Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc… áp dụng khá rộng rãi. Theo quan sát của tôi, đối với ngành xây dựng, thông thường các kỹ sư được bố trí công việc sao cho họ có thể kinh qua các công việc trong chu trình thi công một công trình từ khi đào móng đến khi hoàn thiện. “Chiếc vòng Nhật Bản” nhằm ám chỉ cách đào tạo quản lý thực tiễn của nước này. Các nhà quản lý sẽ lần lược được luân chuyển qua các lãnh vực rất khác nhau từ kỹ thuật công nghệ cho đến tài chính kế toán, nhân sự, bán hàng…cho đến khi hoàn thành một vòng tròn các mặt trong quản trị doanh nghiệp. Đây cũng chính là lý do giải thích vì sao, bạn học của tôi, một người có bằng MBA ở Mỹ khi trở về làm việc ở Nhật Bản cũng phải cúi đầu lắng nghe các vị quản lý lão thành trong hãng của mình.
Thoạt đầu, tôi có ý nghĩ việc luân chuyển nhân lực nhằm tránh tiêu cực trong quản lý. Chẳng hạn, một kế toán trưởng ở chi nhánh một cơ quan có thể tạo điều kiện cho nhân viên thu ngân giữ lại một lượng tiền mặt, sau đó đem cho vay hay mua bán lòng vòng, trước khi chuyển về công ty mẹ. Sự việc này chỉ xãy ra khi cả hai có quan hệ đã phát triển đến mức có thể thông đồng để mưu cầu lợi ích riêng của nhóm. Một quản lý công ty cũng có thể tuyển vào đơn vị mình bà con họ hàng để tạo chân rết trong các phi vụ làm ăn bất chính…
Tuy vậy, qua thời gian, tôi dần dần nhận thấy việc luân chuyển nhân lực còn ẩn chứa một giá trị cao đẹp trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho tổ chức.
Trước hết, nói về nhân viên cấp dưới, việc luân chuyển nhân lực là cách để khơi nguồn sáng tạo, giúp họ tránh được tính lười biếng, ù lỳ do công việc đơn điệu mỗi ngày cùng một người sếp qua nhiều năm. Vì thế, nếu luân chuyển cán bộ quản lý theo chu kỳ, tính thích ứng của nhân viên cấp dưới sẽ trở nên linh hoạt và năng động hơn. Mỗi sếp mỗi vẻ, mỗi cá tính khác nhaunvà như thế cách điều hành tổ chức, ứng xử sẽ khác nhau. Nhân viên cấp dưới phải có năng lực đáp ứng sự thay đổi nếu không khó có thể tồn tại trong môi trường làm việc mới. Phương pháp này được các cơ quan công quyền, nhất là cơ quan ngoại giao áp dụng phổ biến nhằm tránh cho nhân viên cấp dưới làm viêc máy móc, quan liêu. Trên thực tế ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, nơi có nhiều các cơ quan nước ngoài, rất nhiều người phải thay đổi công việc do không thích ứng khi có sự thay đổi quản lý mới.
Luân chuyển là cách có thể đào tạo ra một lớp quản lý toàn năng. Một kỹ sư trẻ khi tốt nghiệp ra trường, anh ta thường phải làm công tác chuyên môn. Tuy nhiên, để trở thành một nhà quản lý, anh ta phải trải qua nhiều công việc khác nhau khả dĩ có thể đủ tri thức và kinh nghiệm xử lý các tình huống đa dạng trong quản trị điều hành tổ chức. Cách làm này các doanh nghiệp Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc… áp dụng khá rộng rãi. Theo quan sát của tôi, đối với ngành xây dựng, thông thường các kỹ sư được bố trí công việc sao cho họ có thể kinh qua các công việc trong chu trình thi công một công trình từ khi đào móng đến khi hoàn thiện. “Chiếc vòng Nhật Bản” nhằm ám chỉ cách đào tạo quản lý thực tiễn của nước này. Các nhà quản lý sẽ lần lược được luân chuyển qua các lãnh vực rất khác nhau từ kỹ thuật công nghệ cho đến tài chính kế toán, nhân sự, bán hàng…cho đến khi hoàn thành một vòng tròn các mặt trong quản trị doanh nghiệp. Đây cũng chính là lý do giải thích vì sao, bạn học của tôi, một người có bằng MBA ở Mỹ khi trở về làm việc ở Nhật Bản cũng phải cúi đầu lắng nghe các vị quản lý lão thành trong hãng của mình.
Subscribe to:
Posts (Atom)